Chia sẽ thông tin và liên lạc

Tên

Email *

Thông báo *

Thứ Tư, 23 tháng 9, 2020

CHỨNG TRẠNG CỔ GÁY.

CHỨNG TRẠNG CỔ GÁY.


÷ chứng trạng cổ gáy là chứng trạng thứ yếu thường gặp nhiều trong bệnh tật Nói chung không coi là chủ chứng, mục này giới thiệu một số tính trạng có giá trị chẩn đoán thường gặp như , cổ cứng ,cổ thô ,kết hạch bên cạnh cổ và nhọt độc ở vùng cổ gáy.
CỔ CỨNG.
÷ Cổ cứng là chỉ gân mặt cơ thịt ở vùng gáy liền với vùng lưng bị cứng đơ không cúi, ngửa, không ngoảnh được sang hai bên phải Và trái, ngoại cảm nhiệt bệnh ,nội thương tạp bệnh đều có thể xuất hiện chứng này .
÷ Trong bệnh nhiệt, phát sốt đột ngột, đau đầu nôn mửa, dùng gáy căng cứng Thậm chí hôn mê là do nhiệt độc, uế trọc gây nên, điều trị theo phép thanh nhiệt giải độc, lợi thấp phương hướng hóa trọc trừ uế tạp, cho uống ( TRIỆU THỊ LƯU HÀNH TÍNH ẤT HÌNH NÃO VIÊM PHƯƠNG 1 ).
÷ Nếu kiêm chứng sốt cao, ngực khó chịu và nôn mửa khá nặng, có thể dùng ( THANH ÔN DỊCH UẾ PHƯƠNG 2 ) để thanh ôn dịch uế.
÷ kiêm chứng sốt cao, tự ra mồ hôi, nhức đầu dữ dội, hay ngủ nôn mửa luôn, đó là nhiệt độc có phạm vào khí doanh, điều trị theo phép thanh nhiệt giải độc, thấu doanh chuyển khí dùng ( HẠ THỊ ẤT NÃO PHƯƠNG SỐ II, 3 ).
÷ Nếu sốt cao hôn mê, khát nước, nóng rát không mồ hôi, rêu lưỡi nhớt là do khí phận nhiệt Thịnh, vị âm đã tổn thương, điều trị nên thanh khí, thấu nhiệt hóa thấp , dưỡng âm Hòa vị, cho uống ( TỐNG THỊ THẤP ÔN PHƯƠNG 4 ) cổ gáy cứng đơ, sốt cao hôn mê, chân tay co giật, khát nước, tiểu tiện vàng, là do nhiệt cực Sinh Phong, nên thanh nhiệt Bình CAN, dẹp phong cho uống ( DƯƠNG THỊ HÓA TÀI PHONG DẪN PHƯƠNG 5 ).
÷ kiêm chứng trong họng có tiếng đờm xèo xèo, đại tiện chưa giải là do Đàm nhiệt mê khiếu, tâm thần mất tác dụng, tình thế bệnh vào giai đoạn Nguy hiểm, nên Thanh Tâm hóa Đàm khai khiếu, thông Phủ tiết nhiệt dẹp Phong thì dùng ( CHU THỊ ẤT NÃO CỰC KỲ PHƯƠNG 6 ).
÷ Những chứng bệnh nói trên có tính truyền nhiễm nhất định, ở khu vực có dịch nên dùng các thuốc thanh nhiệt giải độc tịch uế hóa trọc mà dự phòng , như. ( LƯU THỊ ẤT NÃO DỰ PHÒNG PHƯƠNG 7. " ẤU THỊ ẤT NÃO DỰ PHÒNG PHƯƠNG 8 ).
÷ Trong Nội Thương tạp bệnh, cổ gáy cứng đơ khó chịu, bệnh tình kéo dài, kiêm chứng chóng mặt ù tai lưng đùi mềm yếu, mặt mắt đỏ, đầu nặng chân nhẹ, đi đứng lảo đảo, mạch Huyền tế, là thuộc âm khuy dương cang. Kinh mạch mất nuôi dưỡng, nên tư thủy hàm mộc, bình CAN Tiềm Dương, nhu cân dẹp phong cho uống. ( HUYỄN VẬN NINH 9 ).
÷ Nếu gáy cứng khó chịu kéo dài, lại đau nhức là do âm hư huyết hư thiếu, gân mạch không Vinh Nhuận, dùng ( BACH THƯỢC MỘC QUA THANG 10 ) để thư cân dưỡng huyết tư âm Chỉ Thống.
÷ Gáy cổ cứng lâu ngày, xoay chuyển khó khăn, đau nhức, kiêm chứng tay chân tê dại, mỏi đau gân xương hoặc miệng mắt méo xếch là thuộc đờm ứ nghẽn đường lạc , gân mạch không điều hòa ,cho uống ( TRỪ TÝ TRỤC Ứ THANG 11 ) để hoạt huyết hóa ứ, hành khí Thông Lạc trừ thấp quét đàm.
÷ Gáy cứng chân tay tê dại, lưng và cột sống cổ tự động khó khăn mà bệnh đau lâu ngày là thuộc thận hư, Kiêm phong thấp ngưng trệ ở Kinh Lạc, bên trong cho uống ( UY LINH THANG 12 ) để bổ thận hành ứ , khu phong trừ thấp , Thông Lạc giảm đau , bên ngoài thì bôi ( CÂN CỐT CHỈ THỐNG TỬU 13 ) để ôn thông hành ứ , thư Lạc giảm đau .
÷ Gáy cứng đi khó chịu mà đau Hoặc do nằm lệch gối cổ bị vẹo gây đau có thể dùng ( DƯƠNG THỊ THƯ CẢNH THANG 14 ) để thư phong giải cơ Thông Lạc chỉ thống.

Thứ Ba, 22 tháng 9, 2020

Bệnh U Gan - Xơ Gan - Cổ Trướng

SƠ GAN CỔ TRƯỚNG.


XƠ GAN, CỔ TRƯỚNG

Xơ gan là một bệnh mạn tính toàn thân tổn thương chủ yếu là cấu trúc của gan bị biến dạng do sự tăng sinh và xơ hóa của tổ chức gan, hình thành các cục tại mô gan. Biểu hiện lâm sàng chủ yếu là chức năng gan giảm và một loạt triệu chứng do tăng áp lực tĩnh mạch cửa. Căn cứ vào các triệu chứng lâm sàng khác nhau mà y học cổ truyền thường mô tả trong các chứng: ‘Tích Tụ’, ‘Cổ Trướng’, ‘Phúc Trướng’ [Linh Khu], 'Thủy cổ" (Cảnh Nhạc Toàn Thư)...

Nguyên Nhân

Những nguyên nhân thường gặp theo y học hiện đại là:

l. Viêm gan do vi rút.

2. Nhiễm bệnh hấp huyết trùng (gặp nhiều ở Trung Quốc).

3. Dinh dưỡng kém và nghiện rượu.

4. Nhiễm độc hóa chất như Thạch tín... Hoặc do tắc mật kéo dài gây xơ gan, thường rất ít gặp.

Theo y học cổ truyền thì sự hình thành của xơ gan có liên quan đến 3 tạng Can, Tỳ và Thận. Nguyên nhân chính là do khí trệ, huyết ứ, thủy thấp ứ đọng trong cơ thể dẫn đến làm hư tổn thận âm, thận dương. Có thể giải thích cơ chế các triệu chứng bệnh lý như sau: Chứng hoàng đản và tích tụ trực tiếp ảnh huởng đến tạng Can. Can tàng huyết, thích sơ tiết, bệnh lâu ngày, Can không được thông điều sinh ra can khí uất sẽ ảnh hưởng đến chức năng của tỳ vị (can vị bất hòa, tỳ vị hư nhược). Trên lâm sàng thường có các triệu chứng như ngực sườn đầy tức, ợ hơi, nôn, buồn nôn, chán ăn, tiêu lỏng... bệnh lâu ngày khí trệ sinh ra huyết ứ, biểu hiện các triệu chứng mạn sườn đau tức tăng cố định, môi lưỡi tím thâm, các hội chứng ứ huyết, xuất huyết. Mặt khác, nếu do ăn uống thiếu thốn thất thường, nghiện rượu quá độ cũng làm tổn thương tỳ vị, chức năng tỳ vận hoá kém nội sinh thấp nhiệt, tân dịch bị tổn thương. Nếu cảm nhiễm trùng độc hoặc hóa chất độc hại cũngđều do tác hại can tỳ mà sinh bệnh. Bệnh lâu ngày sẽ tổn hại thận, thận dương hư tiểu khó khăn, phù

và cổ trướng nặng hơn, thận âm hư dẫn tới can thận âm hư, can hỏa vượng, can huyết hao tổn, can phong động sinh co giật hôn mê... Tóm lại bệnh xơ gan giai đoạn đầu chủ yếu là tổn thương can tỳ, khí ứ, huyết trệ, vào glai đoạn cuối tạng thậân cũng bị tổân thương sinh ra tỳ thận dương hư và can thâïn âm hư, bệnh trầm trọng và khó trị.

Triệu Chứng

- Giai đoạn bắt dầu: Chức năng gan còn bù trừ, triệu chứng lâm sàng thường không rõ hoặc rất nhẹ, chủ yếu triệu chứng rối loạn tiêu hóa như ăn không biết ngon, tiêu lỏng, người bệnh cảm thấy mệt mỏi, đau nhẹ, hơi tức vùng bụïng trên bên phải hoặc đầy bụng, nôn hoặc buồn nôn. Khám gan hơi to (có thể không to), có bệnh nhân lách to. Chức năng gan bình thường hoặc hơi suy giảm, có thể khám kỹ phát hiện điểm ứ huyết, mạch sao mà xác định bệnh.

- Giai đoạn toàn phát: Chức năng gan suy giảm rõ. Lâm sàng biểu hiện triệu chứng rối loạn tiêu hóa tăng, mạn sườn bên phải đau rõ, sụt cân, da xạm, có bệnh nhân vàng da, vàng mắt, điểm ứ huyết, mạch sao ở mặt, ngực, tay, vai, cổ.. . hoặc có hiện tượng giãn mao mạch, bàn tay, đầu ngón tay đỏ mập lên, chân răng, mũi, trĩ, xuất huyết, tiêu có máu, phụ nữ kinh nguyệt nhiều kéo dài, hoặc có triệu chứng hoa mắt, chóng mặt, tim hồi hộp, ít ngủ, chân tay tê dại, ngứa, tiểu ít, hoặc tiểu khó, cổ chân phù, bụng có nước nhẹ. Khám gan thấy có thể eo nhỏ hoặc to dưới bờ sườn, bờ sắc cứng.

- Giai doạn cuối: Triệu chứng tăng áp lực tĩnh mạch rõ: cổ trướng, da bụng bóng, tuần hoàn bàng hệ, tiểu rất ít hoặc vô niệu, khó thở, người gầy, sắc mặt xạm tối, da mặt vàng đậm, bệnh nặng có xuất huyết tiêu hóa, tinh thần lờ đờ, buồn ngủ hoặc hưng phấn, hốt hoảng, hôn mê gan...

Chẩn Đoán

Chủ yếu là cần có sự chẩn đoán sớm qua những lần khám sức khỏe có định kỳ, chú ý những người có tiền sử bệnh gan vàng da, điều kiện dinh dưỡng kém, nghiện rượu, sống ở vùng có bệnh sốt rét, giun móc, công việc có tiếp xúc với hóa chất độc...

Chẩn đoán xơ gan căn cứ vào các mặt sau:

1. Tiền sử bệnh: Mắc bệnh viêm gan vi rút, hấp huyết trùng, sốt rét, bệnh gan mật, vàng da, điều kiện dinh dưỡng kém, nghiện rượu, suy tim phải kéo dài.

2. Gan lách to lúc mới mắc, gan to, mặt vùng gan nhẵn, hơi cứng, thời kỳ cuối gan co nhỏ, cứng, bề mặt lồi lõm, có hòn cục, thường ấn đau không rõõ rệt, lách to hoặc rất to nếu có xuất huyết tiêu hóa thường lách nhỏ lại.

3. Chức năng gan suy giảm.

4. Triệu chứng tăng áp lực tĩnh mạch cửa.

5. Kết quả sinh thiết: cấu trúc gan biến dạng, tăng sính tổ chức và sự hình thành các cục ở mô gan.

Căn cứ vào nguyên nhân xơ gan trên lâm sàng thường chia gan do viêm gan, xơ gan do rượu, xơ gan do mật, xơ gan do tim, xơ gan do sắc tố, xơ gan do hấp huyết trùng, do sốt rét...

Một số kết quả xét nghiệm và các phương pháp kiểm tra khác có thể tham khảo trong chẩn đoán.

a. Số lượng tế bào hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu đều giảm, tế bào non của tủy tăng.

b. Nước tiểu có anbumin và trụ niệu.

c. Albumin huyết thanh giảm, Globulin huyết thanh tăng, tỷ lệ A/G giảm hoậc nghịch đảo, điện di protein có gamma-globulin tăng cao, bêta-globulin tăng vừa, albumin nhất là anbumin tiền huyết thanh giảm.

d. Phản ứng kết tủa và lên bông: EnTT, CCFT, TTT, TFT đều dương tính, bilirubin huyết thanh cao quá 2mg%, SGPT và SGOT đều tăng... đều có thể giúp chẩn đoán nhưng không có tính đặc hiệu.

e. Đối với xơ gan do mật, Cholesteron tăng cao, bình thường hoặc hơi thấp, nếu Cholesteron thấp rõ nói lên tiên lượng là không tốt.

f. Tiền hôn mê gan, Ammoniemia cao, vào giai đoạn cuối xơ gan thời gian prothrombin kéo dài rõ.

g. Trong bệnh xơ gan, AFT tăng cao.

h. Lúc cần và có điều kiện làm thêm siêu âm gan, chụp thực quản, soi dạ dày ổ bụng. để giúp chẩn đoán.

Điều Trị

Theo sự phân tích về cơ chế sinh bệnh và theo y học cổ truyền thì trong bệnh xơ gan, bệnh lý chủ yếu là can huyết ứ trệ, cho nên phép chữa chính là hoạt huyết hóa ứ và trong quá trình điều trị cần phân biệt rõ các mặt tiêu bản, hư thực, hoãn cấp để chọn phép chữa thích hợp, chủ yếu theo 3 giai đoạn bệnh mà biện chứng luận trị.

l- Giai Đoạn Đầu: Bệnh mới bị, bệnh nhân còn khỏe.

Điều trị: Hoạt huyết, hóa ứ kiêm điều can lý tỳ. Dùng bài Huyết Phủ Trục Ứ Thang gia giảm: Đương quy 12- 16g, Xuyên Khung 8g, Chỉ xác 8g, Xuyên sơn giáp (nướng) 12g, Sinh địa hoàng 12g, Đào nhân 8 - 12g, Sài hồ 8- 12g, Ngũ linh chi 6-8g, Xích thược 8- 12g, Hồng hoa 6- 10g, Đơn sâm 12g, Miết giáp 12- 16g.

Gia giảm: Mệt mỏi nhiều, thêm Hoàng kỳ, Đảng sâm, Bạch truật, Bạch linh để ích khí kiện tỳ. Ăn ít, bụng đầy, bỏ Miết giáp thêm Mạch nha, Sơn tra, Thần khúc để tiêu thực. Miệng khô, tiêu ít, vàng, da nóng, vàng da, rêu lưỡi vàng dày, mạch Sác... có triệu chứng thấp nhiệt, bỏ Miết giáp, Đào nhân, Hồng hoa thêm Nhân trần, Chi tử, Liên kiều, Xa tiền, Trạch tả... Có triêïu chứng hư nhiệt như sốt lòng bàn chân, bàn tay nóng, lưỡi thon đỏ, mạch Tế Sác, bỏ Đào nhân, Hồng hoa thêm Tri mẫu, Địa cốt bì, Hạn liên thảo, Mạch môn, Ngũ vị tử... để thanh hư nhiệt. Ngủ kém thêm Táo nhân sao, Bá tử Nhân... để dưỡng tâm, an thần.

2. Giai Đoạn Toàn Phát: Chức năng gan suy giảm, cơ thể bệnh nhân yếu, đau hoặc không nhưng có phù, bụng đầy, có nước, vùng gan đầy tức... bệnh biểu hiện hư thực lẫn lộn.

Điều trị: Sơ can, hoạt huyết, kiện tỳ, lợi thủy. Dùng bài Tiêu Dao Tán thêm Ngũ Bì Ẩm gia giảm: Sài hồ 12 - 16g, Bạch truật 12g, Đan sâm 12g, Đại phúc bì 8 - 10g, Đương qui 12 - 16g, Bạch linh 12g, Chỉ thực 8g, Tang bạch bì 12g, Xích thược 10g, Đảng sâm 12g, Trần bì 8g, Gừng tươi 3 lát.

Gia giảm: Mạn sườn đau nhiều, gan lách to, có nốt ứ huyết thêm Đương quy vĩ, Xuyên sơn giáp, chế Hương phụ, Uất kim để tăng thêm tác dụng hành khí, hoạt huyết. Có triệu chứng huyết hư thêm Bạch thược, Thục địa, Hà thủ ô, Kỷ tử, Hoa hòe để bổ huyết, chỉ huyết. Can thận âm hư, sốt nhẹ, lòng bàn chân tay nóng, chất lưỡi thon đỏ, mạch Huyền Tế cần thêm thuốc tư dưỡng can thận như Sa sâm, Mạch môn Ngũ vị tử, Sinh địa, Nữ trinh tử, Câu kỷ tử, Bạch thược, Hạn liên thảo...

3. Giai đoạn cuối: Đến giai đoạn cuối thì cơ thể người bệnh đã quá suy yếu do chính khí hư nhưng cổ trướng lại tăng (tà khí thực) nên phép chữa phải dùng vừa công vừa bổ, cần chú ý nắm nguyên tắc ‘cấp trị tiêu, hoãn trị bản’, phép trị bản chủ yếu bổ khí huyết, sơ Can, kiện tỳ. Trị tiêu chủ yếu là công trục cổ trướng...

Phép trị: Bổ khí huyết. Dùng bài Bát Trân Thang, Thập Toàn Đại Bổ gia giảm tùy tình hình bệnh.

Đảng sâm 12g, Bạch truật 30-60g, Kỷ tử 12-20g Đơn sâm 12-20g, Hoàng kỳ 12g, Đương quy 12-20g, Sơn dược 12- 16g, Xa tiền tử 12-20g, Bạch phục linh 12g, Bạch thược 12-20g, Ý dĩ nhân 12-20g Chích thảo 4-8g.

Gia giảm: Tỳ thận dương hư, ăn kém, tiêu lỏng, mặt xạm, lưng đau, bàn chân phù, chân tay lạnh, lưỡi bệu, rêu trắng, mạch Trầm, Trì, Huyền, cần ôn bổ tỳ thận, dùng bài thuốc gồm các vị chế Phụ tử, Nhục quế, Xuyên ngưu tất, Phòng kỷ, Can khương, Bạch linh, Bạch truật, Trạch tả... Trường hợp can thận âm hư, hoa mắt, chóng mặt, ù tai, mắt khô, ít ngủ, lưỡi đỏ, ít rêu, mạch Huyền Tế Sác... cần tư dưỡng can thận, dùng bài thuốc gồm các vị: Hà thủ ô, Kỷ tử, Sinh địa, Mạch môn, Sa sâm, Thạch hộc, Đan sâm, Kê huyết đằng, Quy bản, Miết giáp... Trường hợp xuất huyết nhiều (nôn ra máu hoặc tiêu ra máu, hôn mê gan, cần xử trí cấp cứu kết hợp Đông Tây Y).

Trường hợp cổ trướng nặng gây nên khó thở cần công trụïc cổ trướng, có thể dùng một trong những bài sau: Bị Cấp Hoàn (Ba đậu bỏ vỏ, ép hết dầu, Đại hoàng, Can khương, lượng bằng nhau, sấy khô, tán bột mịn, luyện mật ong, làm viên), mỗi lần uống 1-2g với nước ấm. Ngũ Công Tán (Khiên ngưu tử 120g, Tiểu hồi hương 30g, tán bột, làm viên. Mỗi lần uống l,5-3g, nuốt ngày 1-2 lần. Gia Vị Thập Táo Thang: Đại kích (chế dấm), Nguyên hoa, Cam toại, Hổ phách, Trầm hương, Hắc Bạch sửu, lượng bằng nhau, tán bột mịn, trộn đều) mỗi lần uống l,5-3g với nưóc sắc Táo tàu. Chu Xa Hoàn (Cam toại, Nguyên hoa, Đại kích, Đại hoàng, Hắc sửu, Mộc hương, Trần bì, Thanh bì, Khinh phấn, Binh lang). Mỗi lần uống 07,5 – 1g.

Chú ý đối với những bệnh nhân có xuất huyết, có bệnh tim, người bệnh quá suy kiệt, không nên dùng phép trục thủy. Lúc dùng phép trục thủy nên kết hợp Tây y truyền dịch để tránh được trạng thái mất nước tổn hại chân âm. Có thể dùng thang Lý Ngư Xích Tiểâu Đậu Thang: Cá chép 1 con 500g, đánh vảy sạch, bỏ lòng ruột. Xích tiểu đậu 60g, không cho muối, nấu chín nhừ lọc qua vải lấy nước uống, ngày uống 1 thang, uống liền trong 2-3 tuần có kết qủa tốt.

MỘT SỐ BÀI THUỐC KINH NGHIỆM TRỊ XƠ GAN

+ Kiện Tỳ Hoạt Huyết Thang (Lưu Hào Giang, bệnh viện Ung thư Nam Thông, tỉnh Giang Tô): Sơn dược, Biển đậu, Ý dĩ, Đơn sâm, Xích thược đều 30g, Thần khúc, Cốc nha, Mạch nha, sinh Bồ hoàng đều 10g, Tam lăng, Nga truật đều 15-30g, sắc uống (trị xơ gan giai đoạn đầu).

Khí hư thêm Hoàng kỳ 30g, Đảng sâm 10g. Huyết hư thêm Thục địa, Đương qui đều 10g. Âm hư thêm Nam sa sâm, Mạch môn đều 10g. Dương hư thêm Thục phụ phiến 10g, Can khương 3g. Vùng gan đau thêm Kim linh tử, Diên hồ sách đều 10g. Nôn, buồn nôn thêm Đại giả thạch 30g, Tuyền phúc hoa 10g. Chảy máu mũi thêm Tiên hạc thảo 30g, Trắc bá diệp sao cháy 10g.

Kết quảù lâm sàng: Trị 42 ca, khỏi 22 ca, kết quả tốt 11 ca, tiến bộ 5 ca, không kết quả 4 ca, tỷ lệ kết quả 90,5%.

+ Hộ Can Thang (Hình Bỉnh Vinh, tỉnh Giang Tô, Trung Quốc): Bạch truật, Hoàng kỳ, Hổ trượng, Bình địa mộc đều 20g, Sơn dược, Sinh ý dĩ, Biển đậu, Đơn sâm, đều 30g, Sao Mạch nha, sao Thần khúc sao Sơn tra đều 10g, Quy vĩ 15g, sắc uống.

Âm hư thêm Hà thủ ô 30g, Mạch môn 20g. Huyết hư thêm Thục địa 15g, Kê huyết đằng 30g. Khí hư thêm Đảng sâm 20g, Thái tử sâm 30g. Dương hư thêm Phụ phiến 10g, Can khương 3g. Xuất huyết thêm Mao căn 30g, Tiên hạc thảo 30g. Vùng gan đau thêm Kim linh tử 10g, tiêu Địa long 10g, Sài hồ 5g, Diên hồ sách 10g...

- Kết quả lâm sàng: Trị 37 ca, sau 3-6 tháng, khỏi 18 ca, tốt 11 ca, có kết quả 4 ca, không kết quảû 4 ca, tỷ lệ có kết qủa 88,57%.

+ Tiêu Trưng Hoàn (Vương Kiện Trung, tỉnh Hồ Bắc): Địa Miết trùng 100g, Bào sơn giáp 100g, Thủy điệt 75g, Đại hoàng 50g, tán bột, hồ làm hoàn (có thể trộn nước làm hoàn).

Dùng bài thuốc theo biện chứng gia giảm, trường hợp có xuất huyết uống thuốc cầm máu, hết xuất huyết tiếp tục dùng.

Kết quả lâm sàng: Trị 40 ca, khỏi 11 ca, cơ bản khỏi 13 ca, tiến bộ 12 ca, không khỏi 4 ca, tỷ lệ có kết quả 90%.

+ Hoạt Can Thang (Vương Thanh Chính, huyện Quý Định, tỉnh Quý Châu): Kim tiền thảo, Phục linh đều 30g, Sơn giáp (nướng) 10g, Trạch Lan 10g, Đại phúc bì 12g, Đơn sâm, Sơn dược, Trạch tả, Hoàng kỳ đều 15g, sắc uống.

Tỳ hư, thấp nặng thêm Thương truật, Hậu phác, Ý dĩ. Can khí uất bỏ Hoàng kỳ thêm Sài hồ, Bạch thược, Chỉ xác, Hương phụ. Khí trệ huyết ứ bỏ Hoàng kỳ, Sơn dược thêm Tam lăng, Nga truật đều 2g, Miết giáp 30g, Đào nhân 12g. Tỳ thận dương hư kết hợp bài Phụ Tử Lý Trung Thang.

- Kết quả lâm sàng: Trị 50 ca, tốt 35 ca, tiến bộ 14 ca, không kết quả 1 ca.

+ Kiện Tỳ Nhuyễn Can Thang (Chu Minh Liệt, bệnh viện nhân dân Sa Thị số 3, tỉnh Hồ Bắc): Sài hồ, Bạch truật, Ngũ linh chi, Bạch linh, Địa long, Đan sâm đều 15g, Thanh bì, Chỉ xác, Bồ hoàng đều 12, Thuyên thảo 10g, Chích Miết giáp 20g, Kê nội kim 8g, Bạch mao căn 30g, Cam thảo 5g, sắc uống.

Biện Chứng gia giảm: Bụng đầy, ăn ít thêm Sa nhân 10g, Sơn tra, Mạch nha, Cốc nha 15g. Bụng có nước thêm bột Nhị sửu sao 10- 15g, sao Sa nhân 8- 10g, Xa tiền tử 15-20g. Bụng có tuần hoàn bànb hệ (ứ huyết) thêm Xích thược, Uất kim đều 15g, Tam lăng, Nga truật 12- 15g. Có mạch sao và lòng bàn tay đỏ thêm Sinh địa 15g, Xích thược 15g, Đào nhân 2g, Hồng hoa 10g, Kê huyết đằng 20g. Tiêu lỏng thêm Thương truật 15g, Hoắc hương 10g, Thần khúc 15g, Trạch tả 12g. Gan lác to thêm Thổ miết trùng 10g, Quế chi 10g, Xạ can l2g.

- Kết quả lâm sàng: Trị 83 ca, hết triệu chứng lâm sàng, chức nâng gan hồi phục bình thường.

Kiện Tỳ Phân Tiêu Thang (Lữ Vân Kiếm, bệnh viện Trung y Hạ Ấp, tỉnh Hà Nam):

(1) Hoàng kỳ, Sơn dược, Đơn sâm đều 20g, Ý dĩ nhân, Xa tiền tử (bọc sắc), Đại phúc bì đều 30g, Đảng sâm, Phục linh, Bạch truật, Tiên linh tỳ, Miết giáp đều 15g, Uất kim, Thanh bì, Trần bì đều 12g, Phụï tử, Cam thảo đều 6g sắc uống.

(2) Cam toại, Nhị sửu đều 6g, Phụ tử, Nhục quế đều 10g, Nước Gừng tươi lượng vừa đủ, thuốc đều tán thành bột mịn, cho gừng trộn đều, cho vào vải gạc, thêm nước gừng thành dạng hồ, đắp vào rốn bệnh nhân, mỗi ngày thay 1 lần. 10 ngày là 1 liệu trình.

- Biện chứng gia giảm: Chỉ số hoàng đản tăng, dùng bột Tử ha xa, Lộc nhung. Tiểu cầu giảm, thời gian máu đông, máu chảy kéo dài thêm Hạn liên thảo, Nữ trinh tử, Tiên hạc thảo. Amoniac huyết tăng thêm Đại hoàng, Xương bồ, Giáng hương. SGPT tăng cao thêm Bồ công anh, Hạ khô thảo. HBsAg dương tính thêm Thổ phục linh, Hổ trượng, Quán chúng. Ăn kém thêm sao Mạch nha, sao Thần khúc, sao Sơn tra, Kê nội kim. Âm hư thêm Bắc sa sâm, Mạch đông, Cát căn, bỏ Phụ tử, Tiên linh tỳ.

Kết quả lâm sàng: Trị 50 ca, khỏi 8 ca, tốt 29 ca, có kết quả 10 ca, không kết quả 3 ca, tỷ lệ có kết quả 94%.

Tam Giáp Phục Can Hoàn (Trương Húc Đông, bệnh viện Trung y Chu Châu tỉnh Hồ Nam): Chích Miết giáp, bào Giáp châu, Quy bản, A giao, Hoài sơn, Đương quy, Sinh hoàng kỳ, Ý dĩ, Phục linh đều 150g, Kê nội kim 100g, Trầm hương 75g, tất cả thuốc trên tán bột mịn, mật vừa đủ làm hoàn.

- Biện chứng gia giảm: Can khí uất trệ, dùng Tiêu Dao Tán gia giảm. Huyết ứ, thủy trệ, dùng Đại Hoàng Miết Trùng Hoàn gia giảm. Thấp nhiệt ứ trệ dùng Nhân Trần Tứ Linh Tán hợp Tam Nhân Thang gia giảm. Can thận âm hư gia Lục Vị Địa Hoàng Hoàn gia giảm.

- Kết quả lâm sàng: Trị 40 ca, kết quả tốt 24 ca, tiến bộ 10 ca, không kết quả 6 ca. Đối với xơ gan, bài này làm tăng tác dụng thuốc tây lợi tiểu.

Hoàng Kỳ Nga Truật Thang (Trung Y Tạp Chí (7) 1990): Hoàng kỳ (sống) 20g, Nga truật 30g, Bạch truật (sao) 15g, Hồng hoa 20g, Sài hồ (tẩm dấm) 10g, Bạch phàn 2g, Địa miết trùng 10g, Cam thảo (sống) 12g. Sắc uống ngày 1 thang.

TD: Sơ Can lý khí, hoạt huyết hóa ứ. Trị xơ gan giai đoạn đầu.

Đã trị 78 ca, có hiệu qủ 37, chuyển biến tốt 33, không hiệu quả 8. Tỉ lệ đạt kết quả là 89,7%.

Lợi Thủy Tiêu Trướng Thang (Thiểm Tây Trung Y (5) 1981): Bạch truật, Thương truật, Sa nhân đều 10g, Thanh bì, Trần bì, Hâïu phác, Chỉ thực đều 9g, Hương phụ, Mộc hương đều 6g, Phục linh, Đại phúc bì, Trư linh, Trạch tả đều 15g, Ý dĩ nhân 6g, Sinh khương 3 lát.

TD: Nhu Can lý khí, kiện Tỳ lợi thấp. Trị xơ gan, bụng trướng nước.

Đã trị 20 ca đều có kết quả tốt.

Lý Khí Trục Thủy Thang (Hồ Bắc, Trần Đống Tổ Truyền Bí Phương): Thanh bì, Trần bì, Chỉ xác, Mộc hương, Hậu phác, Binh lang (phiến), Địa phu tử đều 9g, Phục linh 30g, Đại kích, Cam toại.

Thuốc sắc. Còn Đại kích, Cam toại, tán bột, trộn đều chia làm 4 phần, lần đầu 1,5g, 3g,, 4,5g, 6g.

TD: Lý khí, trục thủy. Trị xơ gan giai đoạn đầu.

GC: Sau khi uống thuốc, có thể đi tiêu 3-5 lần, thường ra nước mầu đen.

Đã trị hàng trăm ca đều có kết quả tốt.

Tiêu Trùng Ẩm (Danh Y Trị Nghiệm Lương Phương): Đảng sâm, Đương quy đều 15-20g, Bạch truật 30-100g, Phục linh 20-30g, Sài hồ 6g, Xích thược, Đại phúc bì đều 10-15g, Địa khô lâu 40-60g. Sắc uống.

TD: Kiện Tỳ ích Can, hòa Can hoạt huyết, lý khí tiêu trướng, trục thủy đạo trệ. Trị xơ gan, bụng trướng nước. Lâm sàng cho thấy đạt hiệu quả khả quan.

Thanh Nhiệt Đạt Uất Thang (Danh Y Trị Nghiệm Lương Phương): Đại sinh địa 35g, Công đinh hương, Can khương, Viễn chí (sống), Hoàng cầm, Quế chi, Bồ công anh đều 10g, Tri mẫu 20g, Cam thảo 8g, Đại táo 10 trái. Sắc uống.

TD: Bình điều âm dương, thanh nhiệt đạt uất. Trị xơ gan, bụng nước, bế kinh, không thụ thai. Lâm sàng cho thấy đạt hiệu quả khả quan.

Bệnh Án Xơ Gan Giai Đoạn Đầu

(Trích trong Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng)

Hoạn X, nam, 42 tuổi, cán bộ. Bệnh nhân kể đã 6 năm có gan to, vùng gan đau với bệnh viêm gan không rõ rệt. Có bộ mặt đau gan mạn tính, trên mặt có các u mạch hình sao, củng mạc không nhiễm vàng, vùng lá gan và bụng mềm, bờ gan ở dưới bờ sư­ờn 2 khoát ngón tay, thể chất trung bình, mặt gan nhẵn không gồ ghề, chư­a sờ thấy lách, chư­a có cổ tr­ướng. Xét nghiệm chức năng gan chư­a thấy biến đổi rõ rệt, tỉ số albumin, globulin là 1,3/1. Chẩn đoán lâm sàng là xơ gan giai đoạn sớm.

Hội chẩn đông y: thấy vùng gan đau, ăn không ngon, bụng đầy, miệng khô, buồn nôn, trong lòng bứt rứt không yên, chân phù nhẹ, tiểu tiện vàng đỏ, rêu lưỡi vàng, chất lưỡi đỏ ít tân dịch, mạch Tế Huyền hơi sác. Trị bằng phép d­ưỡng âm nhu can, sơ can hoạt lạc. Cho dùng bài Nhất Quán Tiễn Gia Vị (Sinh địa hoàng 15g, (Nam) Sa sâm 12g, (Thốn) mạch đông 9g, Qui thân 9g, Cam kỉ tử 9g, Xuyên luyện tử 6g, Tử đan sâm 6g, Quảng uất kim 9g, Sinh mạch nha 12g, Sinh miết giáp 12g, Phấn trư­ linh 12g, Xuyên liên 3g.). Tùy bệnh chứng mà gia giảm, trước sau dùng tất cả 35 thang, đồng thời dùng phối hợp các thuốc tây bảo vệ gan, sau khi dùng thuốc thì cảm thấy các chứng cơ bản đều hết, sắc mặt từ chỗ gụ xám trở thành có thần sắc, gan mềm đi, điện di protein bình thường. Sau khi ra viện 2 năm, hỏi lại tình trạng cơ thể vẫn giữ được ổn định, bệnh chưa phát triển lại.

Bệnh Án Xơ Gan Do Mỡ

(Trích trong Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng)

V­ương X, nam, 45 tuổi, cán bộ. Người bệnh thân thể béo nh­ư phù, bụng to như­ cái chum, da thịt sờ nh­ư bông, đầu váng mắt hoa, sức yếu, l­ời nói, sắc mặt trắng bệch, mắt màu đen xám, chất lưỡi non bệu, có điểm ứ huyết mà xám xanh, rêu lưỡi trắng, dày mà cáu, tiếng nói hơi yếu. 5-6 năm trước bị đau sư­ờn bụng trên, tức ngực, hơi thở ngắn, rêu trắng dày cáu, ăn ít, mệt nhọc, tim đập, sợ rét. Qua kiểm tra ở một bệnh viện, chẩn đoán là viêm gan mạn tính kèm xơ cứng động mạch. Đã từng nằm viện điều trị nhiều lần, thể trọng tăng, gan to xuống dưới bờ sư­ờn 4 khoát ngón tay, huyết áp 140/100mmHg. Về sau vẫn tiếp tục điều trị, nhưng bệnh vẫn nặng lên. Lại đi khám ở bệnh viện khác, chẩn đoán là xơ gan do mỡ kèm bệnh tăng huyết áp. Chứng này là do can ứ, tì thấp, dương khí bất túc, mỡ đờm ứ kết mà thành bệnh. Cách chữa phải sơ can kiện tì, hóa thấp tiêu mỡ, khử đờm, trợ dương. Dùng bài thuốc Tam Tiên Vị Linh Thang gia vị (Sơn tra sống, chín mỗi thứ 120g, Mạch nha sao 21g, Thanh bì, Trần bì mỗi thứ 9g, Khương hậu phác 12g, Trạch tả 15g, Quế chi non 9g, Hương phụ sao dấm 15g, Cam thảo 6g.). Sau ba thang, trung tiện nhiều, thối, n­ước tiểu nhiều, vẩn đục, đi ngoài phân như­ nước tương, bụng bớt sôi, bớt trư­ớng, hết rêu lư­ỡi, l­ượng ăn tăng, người cảm thấy thoái mái nhẹ nhõm. Còn các chứng khác vẫn nh­ư trước. Dùng tiếp 6 thang bài thuốc trên, tăng lư­ợng Sơn tra lên đến 180g, thêm Phụ tử phiến 9g, uống xong người bệnh bớt béo bệu, bụng nhỏ bớt nhiều, tứ chi và bụng, l­ưng trở nên ấm áp, tiểu tiện nhiều, đại tiện thông thoát, hết lưỡi nhợt, hết rêu, mạch Trầm Hoãn. Đó là do tiêu đạo thái quá, sợ làm tổn thương trung khí, nên dùng phép phù chính khử tà. Cho bài thuốc gồm: Đảng sâm 15g, Bạch truật 18g, Vân phục linh 30g, Trần bì 9g, Bán hạ 9g, Hoàng kỳ 21g, Đ­ơng qui 9g, Thăng ma 3g, Sài hồ 9g, Nhục quế 3g (uống với n­ớc thuốc), Bạch th­ược 15g, Tiêu sơn tra 90g, Hương phụ 15g, Đan sâm 15g, Cam thảo 3g, Uống liền 3 thang, tinh thần phấn chấn, cử động mạnh mẽ, bớt váng đầu, hết tim đập thở gấp, huyết áp 120/80mmHg, da cơ khỏe khoắn, ngủ tốt, lưỡi hồng nhạt, hết điểm ứ huyết mạch Phù Hoãn. Nên "kiện tì lợi thấp, ôn hóa đờm ẩm, giải cơ tiêu mỡ". Dùng bài Tam Tiên Vị Linh Thang gia vị, bỏ Thần khúc, Mạch nha, Thanh bì, thêm Ma hoàng 3g, Khương bì 15g sắc n­ước âm dương uống cho ra mồ hôi. Uống hết 2 thang chư­a ra mồ hôi, sau khi uống thang thứ 3, cho uống thêm 1 bát to Thông bạch thang nóng, mồ hôi ra nhiều như­ dầu, dính, tanh, nặng mùi, ư­ớt hết chăn đệm, trung tiện nhiều. Hôm sau ngủ dậy, người nhẹ nhõm vô cùng, béo bệu giảm đi hơn một nửa, bụng ngực hết đầy, n­ước tiểu nhiều, vẩn đục. Sờ gan chỉ còn dưới bờ sư­ờn nửa khoát ngón tay, cơn đói khát ăn tăng lên, sắc mặt trở nên nhuận bóng, lưỡi đỏ hết rêu, mạch Hoãn Nhược, ngoài mệt mỏi ra các chứng bệnh đều hết. Lại dùng Sài Th­ược Lục Quân Tử Thang, thêm Hoàng kỳ, Đ­ương qui, Đan sâm, Hương phụ, Quế chi, cho uống mấy thang để củng cố về sau. Theo dõi nhiều năm sau khi khỏi bệnh, thấy vẫn công tác bình thường, sức khỏe tốt.

Bàn luận: Đa số bệnh mạn tính cố tật thường chữa sai, dùng phương dược sai, xơ gan do mỡ cũng do lúc đầu chữa không đúng nên bệnh kéo dài, chữa khó khăn. Dùng bài Tam Tiên Vị Linh Thang gia vị, gia giảm theo tình hình cụ thể của người bệnh đã chữa khỏi 2 ca xơ gan do mỡ, 4 ca béo bệu.

Bệnh Án Xơ Gan Sau Hoại Tử

(Trích trong Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng)

V­ương X, nam, 45 tuổi, cán bộ. Người bệnh thân thể béo nh­ư phù, bụng to như­ cái chum, da thịt sờ nh­ư bông, đầu váng mắt hoa, sức yếu, l­ời nói, sắc mặt trắng bệch, mắt màu đen xám, chất lưỡi non bệu, có điểm ứ huyết mà xám xanh, rêu lưỡi trắng, dày mà cáu, tiếng nói hơi yếu. 5-6 năm trước bị đau sư­ờn bụng trên, tức ngực, hơi thở ngắn, rêu trắng dày cáu, ăn ít, mệt nhọc, tim đập, sợ rét. Qua kiểm tra ở một bệnh viện, chẩn đoán là viêm gan mạn tính kèm xơ cứng động mạch. Đã từng nằm viện điều trị nhiều lần, thể trọng tăng, gan to xuống dưới bờ sư­ờn 4 khoát ngón tay, huyết áp 140/100mmHg. Về sau vẫn tiếp tục điều trị, nhưng bệnh vẫn nặng lên. Lại đi khám ở bệnh viện khác, chẩn đoán là xơ gan do mỡ kèm bệnh tăng huyết áp. Chứng này là do can ứ tì thấp, dương khí bất túc, mỡ đờm ứ kết mà thành bệnh. Cách chữa phải sơ can kiện tì, hóa thấp tiêu mỡ, khử đờm, trợ dương. Dùng bài thuốc Tam Tiên Vị Linh Thang gia vị. Sau ba tháng, trung tiện nhiều, thối, n­ước tiểu nhiều, vẩn đục, đi ngoài phân như­ tương, bụng bớt sôi, bớt trư­ớng, hết rêu lư­ỡi, l­ượng ăn tăng, người cảm thấy thoái mái nhẹ nhõm. Còn các chứng khác vẫn nh­ư trước. Dùng tiếp 6 thang bài thuốc trên, tăng lư­ợng Sơn tra lên đến 180g, thêm Phụ tử phiến 9g, uống xong người bệnh bớt béo bệu, bụng nhỏ bớt nhiều, tứ chi và bụng, l­ưng trở nên ấm áp, tiểu tiện nhiều, đại tiện thông thoát, hết lưỡi nhợt, hết rêu, mạch Trầm Hoãn. Đó là do tiêu đạo thái quá, sợ làm tổn thương trung khí, nên dùng phép phù chính khử tà. Cho bài thuốc gồm: Đảng sâm 15g, Bạch truật 18g, Vân phục linh 30g, Trần bì 9g, Bán hạ 9g, Hoàng kỳ 21g, Đ­ơng qui 9g, Thăng ma 3g, Sài hồ 9g, Nhục quế 3g (uống với n­ớc thuốc), Bạch thược 15g, Tiêu sơn tra 90g, Hương phụ 15g, Đan sâm 15g, Cam thảo 3g, Uống liền 3 thang, tinh thần phấn chấn, cử động mạnh mẽ, bớt váng đầu, hết tim đập thở gấp, huyết áp 120/80mmHg, da cơ khỏe khoắn, ngủ tốt, lưỡi hồng nhạt, hết điểm ứ huyết mạch Phù Hoãn. Nên "kiện tì lợi thấp, ôn hóa đờm ẩm, giải cơ tiêu mỡ". Dùng bài Tam Tiên Vị Linh Thang gia vị, bỏ Thần khúc, Mạch nha, Thanh bì, thêm Ma hoàng 3g, Khương bì 15g sắc n­ước âm dương uống cho ra mồ hôi. Uống hết 2 thang chư­a ra mồ hôi, sau khi uống thang thứ 3, cho uống thêm 1 bát to Thông Bạch Thang nóng, mồ hôi ra nhiều như­ dầu, dính, tanh, nặng mùi, ư­ớt hết chăn đệm, trung tiện nhiều. Hôm sau ngủ dậy, người nhẹ nhõm vô cùng, béo bệu giảm đi hơn một nửa, bụng ngực hết đầy, n­ước tiểu nhiều, vẩn đục. Sờ gan chỉ còn dưới bờ sư­ờn nửa khoát ngón tay, cơn đói khát ăn tăng lên, sắc mặt trở nên nhuận bóng, lưỡi đỏ hết rêu, mạch Hoãn Nhược, ngoài mệt mỏi ra các chứng bệnh đều hết. Lại dùng Sài Th­ược Lục Quân Tử Thang, thêm Hoàng kỳ, Đ­ương qui, Đan sâm, Hương phụ, Quế chi, cho uống mấy thang để củng cố về sau. Theo dõi nhiều năm sau khi khỏi bệnh, thấy vẫn công tác bình thường, sức khỏe tốt.

Bệnh Án Xơ Gan Do Tăng Áp Lực Tính Mạch Cửa

(Trích trong Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng)

Thôi XX, nam 41 tuổi, công nhân. Bệnh nhân từ năm 1973 phát hiện thấy gan lách bị sư­ng to, chức năng gan khác thường. Năm 1975 chẩn đoán là viêm gan mạn tính. Từ năm 1977 đến nay, lách ngày càng một to, đi khám ở nhiều bệnh viện đều chẩn đoán là xơ gan do tăng áp lực tĩnh mạch cửa, cư­ờng lách, bệnh nhân được khuyên là mổ cắt lách, nhưng bệnh nhân không đồng ý. Ngày 23-2-1979 đến viện điều trị. Khi vào viện, hai bên s­ờn bệnh nhân đau nhói hoặc đau âm ỉ rất khó chịu, lợi bị chảy máu ít nhiều, còn ăn uống được. Kiểm tra thấy: sức khoẻ nói chung còn tốt, gan to dưới bờ sư­ờn 1,5 cm, lách to dưới bờ s­ờn 3cm, hơi cứng, ấn đau. Lưỡi đỏ tím, có điểm huyết ứ, rêu mỏng, rià lưỡi ám đen, mạch Tế, Sáp. Xét nghiệm thấy: chức năng gan bình thường, bạch cầu 3800/mm3, tiểu cầu 76000/mm3. Kiểm tra siêu âm thấy lách dày 5 cm ở dưới bờ s­ờn 3cm, bờ trên của gan nằm ở gian sư­ờn thứ 6 (7cm), dưới bờ sư­ờn 2 cm. Uống thuốc Barit để chụp phim cho thấy tĩnh mạch thực quản ở đoạn dưới giãn nhẹ.

Chứng này là do huyết ứ nội trở gây ra. Điều trị phải loại huyết hóa ứ, nhuyễn kiên tán kết. Cho dùng bài Nhuyễn Kiên Súc Tì Thang (Đ­ương qui 15g, Xuyên khung 9g, Tam lăng (sao) 9g, Nga truật 9g, Đào nhân (sao) 9g, Thổ nguyên 9g, Đan sâm 30g, Sài hồ 12g, Trần bì 12g.), mỗi thang sắc tới còn 300ml, uống một lần vào buổi tối lúc đói. Hai tuần sau kiểm tra chức năng gan, transaminase glutamic tăng cao đến 36 đơn vị (theo phương pháp cải tiến), bèn ngừng bài thuốc trên, cho dùng bài Kiện Can Sinh Hóa Thang: Đảng sâm 15g, Bạch truật (sao) 9-12g, Sơn dược (sống) 30g, Đ­ương qui, Thanh bì, Chỉ xác (sao) mỗi thứ 12g, Đan sâm 15-30g, Bạch thược (sống) 18g, Long đởm thảo, Xuyên liên mỗi thứ 6-9g, Sài hồ 9g, mỗi ngày sắc uống một thang, cùng thuốc tây y loại bảo vệ gan. Sau nửa tháng, transaminase glutamic trở lại bình thường. Tiếp tục uống Nhuyễn Kiên Súc Tì Thang, uống thêm Súc Tì Tán (Ngũ linh chi 30g, Nga truật, Tam lăng mỗi thứ 60g, Xuyên sơn giáp 90g, Sài hồ 45g, cùng tán bột mịn, mỗi lần uống 6g, ngày uống hai lần sáng tối). Một tháng sau, gan lách đều thu nhỏ. Nằm viện 96 ngày, khi ra viện bệnh nhân tự thấy khỏi hết bệnh, lưỡi hơi tím nhạt, sáu mạch Huyền hữu lực, chức năng gan bình thường, bạch cầu 5300/m3, tiểu cầu 95.000/mm3. Kiểm tra bằng siêu âm: lách dày 3,5cm. Chụp phim sau khi uống barit thấy hết giãn tĩnh mạch, thực quản. Ra viện tiếp tục điều trị. Sau một tháng khám lại, tiểu cầu lại tăng đến 113.000/mm3. Theo dõi trong 4 tháng, tình trạng tốt, khỏi bệnh.

Bàn luận: Xơ gan do tăng áp lực tĩnh mạch cửa, lách s­ng to, c­ường lách thuộc phạm trù tích tụ trong đông y. Tích tụ chia ra chứng tích và chứng tụ. Chứng tích phần lớn thuộc phần huyết hóa ứ, nhuyễn kiên tán kết. Đơn thuốc Súc Tì Thang và Súc Tì Tán được cấu tạo theo phép này, ứng dụng vào lâm sàng thu được hiệu quả mỹ mãn. Trong thời gian điều trị, liều lượng thuốc phải từ ít đến nhiều, tăng dần liều l­ượng sao cho không tổn thương chính khí (ý nói tình trạng chung và các chỉ tiêu chức năng gan, đôi khi phối hợp uống với Súc Tì Tán để nâng cao hiệu quả điều trị, rút ngắn thời gian chữa bệnh. Nhưng phải chú ý định kỳ kiểm tra chức năng gan và xét nghiệm máu, n­ớc tiểu để nắm vững những thay đổi. Nếu bệnh nhên tự cảm thấy chứng bệnh rõ rệt, chức năng gan bị tổn thương nghiêm trọng thì phải giảm liều hoặc ngừng hẳn thuốc, chuyên sang dùng thuốc phù chính của đông y hoặc thuốc bảo vệ gan của tây y để điểu chỉnh cũng có thể dùng bài thuốc Kiện Can Sinh Hóa Thang để chữa, đợi chức năng gan chuyển biến tốt mới tiếp tục công trị cho đến khi khỏi hẳn.

Bệnh Án Xơ Gan Cổ Trướng Do Thấp Nhiệt Ủng Trệ

(Trích trong Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng)

Phan XX, nam 45 tuổi, nông dân, Khám lần đầu ngày 18-5-1963. Trong một tháng lại đây bụng mỗi ngày một to ra như­ cái trống, bệnh viện chẩn đoán là xơ gan cổ trướng kèm lách to lên. Gan lách đều to 6cm. Sắc mặt vàng, mặt có nếp nhăn, nướu răng chảy máut, ăn không được, n­ước tiểu ít, đỏ, mạch Huyền Sác, chất lưỡi đỏ, rêu vàng bẩn. Bệnh này thuộc chứng thấp nhiệt ủng trệ, n­ước tụ, khí trệ, huyết ứ, cổ trướng. Điều trị: phải thanh nhiệt, hóa thấp, trục ứ, tiêu thũng. Cho dùng bài Hóa Thấp Trục Ứ Tiêu Thũng Thang (Miết giáp 30g, Cù mạch 30g, Xa tiền tử 20g, Tam lăng 6g, Nga truật 6g, Phục linh 12g, Trạch tả 18g, Xuyên giáp 6g, Xích th­ợc 10g, Đào nhân 9g, Tiểu kế 30g, Phúc bì 12g, Hồ lô nửa quả. Sắc uống, mỗi ngày 1 thang). Sau khi uống 5 thang nữa, đồng thời pha 30g Đại Tiểu kế nấu thành nư­ớc thay trà uống nhiều lần. Uống xong bụng nư­ớc rút hết, ăn uống dần tăng lên, lách co lại. Tiếp theo cho thêm một số vị kiện tì d­ưỡng huyết như­ Đảng sâm, Hoàng kỳ, Đ­ương qui v.v... vào bài thuốc trên, uống liền trong hơn 4 tháng. Thời gian uống kiêng muối. Lách bệnh nhân trở lại như­ bình thường, các chứng bệnh tiêu tan, đã có thể làm một số công việc đồng áng. Theo dõi người bệnh 15 năm, không thấy tái phát.

Bệnh Án Xơ Gan Cổ Trướng Do Can Uất Khí Trệ, Tỳ Vị Hư Tổn

(Trích trong Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng)

Khương XX, nam, 47 tuổi, nông dân. Người bệnh tiêu hóa không tốt, bụng trướng, nặng nhất là về ban đêm, đã 7-8 năm, khám ở một bệnh viện chẩn đoán là viêm gan mạn tính, xơ gan giai đoạn đầu. 3 tháng gần đây bệnh nặng lên, ăn uống giảm sút, tiêu hóa kém, bụng trướng tăng. Toàn thân yếu sức, gầy còm, bụng to dần như­ cái trống, n­ước tiểu ít, màu vàng. Mạch Trầm, Hoãn. Đã rút nư­ớc ở bụng 2 lần, mỗi lần 1000ml. Điều trị:phải hành khí lợi thủy, thư­ can giải uất. Cho uống phối hợp Thanh Oa Tán với Mẫu Kê Sâm Kỳ Thang. Sau khi dùng thuốc 100 ngày, cổ trướng rút hết, các chứng dần tiến triển, đã có thể làm các công việc chân tay thông thường.

Bệnh Án Xơ Gan Cổ Trướng Do Thấp Nhiệt Đình Trệ

(Trích trong Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng)

Từ X X, nam, 58 tuổi. Bệnh nhân vốn nghiện r­ượu, ăn ít bụng trướng. Gần đây lư­ợng nư­ớc tiêu giảm, bụng căng như­ trống. Xét nghiệm chức năng gan thấy tỉ lệ albumin/globulin đảo ngư­ợc, chẩn đoán là xơ gan cổ trướng. Dùng thuốc đông y và tân dược để chữa nhưng kết quả không rõ rệt. Do người bệnh vốn nghiện rượu nên gan lách đều bị thương tổn, thể hiện sắc mặt xạm đen, mũi đỏ, không đói, tiểu tiện ít, miệng hơi đắng bụng trướng đầy, lưỡi hơi đỏ, rêu đục bẩn, mạch Huyền Sác. Đó là do thấp nhiệt giao trở, gan lách tổn thương dẫn đến tắc nghẽn đường dẫn mà thành cổ trướng. Cho uống Đan Khê Tiểu Ôn Trung Hoàn (Bạch truật 60g, Phục linh 30g, Trần bì 30g, Khương bán hạ 30g, Sinh cam thảo 10g, Tiêu thần khúc 30g, Sinh hương phụ 45g, Khổ sâm 15g, Hoàng liên sao 15g, C­ương châm xa 45g (tẩm dấm sao đỏ, tán nhỏ). Các vị thuốc trên sau khi tán thành bột mịn, lấy dấm và nư­ớc (mỗi thứ một nửa) trộn thành hồ Thần khúc rồi làm hoàn to bằng hạt ngô đồng, mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 70-80 hoàn, uống với nư­ớc thuốc sau: Bạch truật 18g, Trần bì 3g, Sinh khương 1 lát, sắc uống. Đối với người bệnh hư­ nặng, thì bỏ vị Hoàng liên, thêm Hậu phác 15g.), trước hết đem thuốc hoàn sắc thành thang để uống 10 thang rồi mới dùng thuốc hoàn 500g. Sau khi uống thuốc, bụng trướng giảm dần, tiểu tiện trong và dài, các chứng chuyển biến tốt rõ rệt. Lại cho uống 1000 hoàn, uống xong hết cổ trướng, ăn ngon hơn, kiểm tra chức năng gan, tỷ lệ albumin/globulin trở lại bình thường, đã có thể tham gia công tác như­ thường. Theo dõi vài tháng thấy sức khoẻ vẫn tốt.

Bàn luận: Đan Khê Tiểu Ôn Trung Hoàn do Chu Đan Khê sáng chế. Dùng bài thuốc này chữa xơ gan, đặc biệt là với bệnh nhân có tỉ lệ albumin/globulin đảo ngư­ợc, dù là có cổ trướng hay không đều thu được hiệu quả tốt. Thông thường uống từ 180g đến 210g là có thể khiến nư­ớc tiểu trong và nhiều, bệnh nặng thì uống 500g đã được nh­ư thế. Một số bệnh nhân sau khi đã hết các triệu chứng bệnh chức năng gan bình thường thì ngừng thuốc, nhưng rồi do không điều độ, làm việc quá sức thì lại tái phát, khi đó lại dùng bài thuốc trên vẫn có hiệu quả tốt. Những bệnh nhân loại này được chữa khỏi đã 20 năm mà vẫn khoẻ mạnh. Vị C­ương châm sa trong bài thuốc còn có tên là Châm sa hay C­ương sa.÷ Chứng này chỉ vùng bụng trướng đầy, thậm chí sưng đầy trướng to, bệnh nặng là cổ trướng, đan phúc trướng .

÷ Bụng trướng, thậm chí trướng to như cái trống kém ăn, tiểu tiện ích, Nếu là bụng mới phát thì dùng ( CHÂU THỊ PHÚC TRƯỚNG PHẤN 1) để tiêu trướng tán trệ.
÷ Nếu thiên về loại trướng do nước ngăn trở và khí trệ, thì có thể dùng ( CỔ TRƯỚNG TIÊU THỦY ĐAN 2) để hành khí Trục thủy.
÷ kiêm chứng kém ăn đại tiện nhão, đau ở hạ sườn, ợ hơi, mạch Huyền là do . Can uất. Tỳ hư thủy ứ đọng, dùng ( CỐ THỊ PHÚC THỦY PHƯƠNG " 1 " 3 ) để thực Tỳ bổ Can, hóa trệ lợi Thủy,
÷ Nếu thiên về khí và Thủy ngăn trệ dùng ( TRƯƠNG THỊ CAN NGẠNH HÓA PHÚC THỦY PHƯƠNG 4 ) để hành khí tiêu trướng trục Thủy kiện Tỳ.
÷ Bụng trướng to như cái trống, da bụng căng tức, tiểu tiện rất ít, rêu lưỡi nhớt, hình thể còn khỏe, nên trục Thủy tiêu trướng chọn dùng ( PHÂN THỦY ĐAN 5) nặng hơn thì dùng ( NHAN THỊ TRỤC THỦY TÁN 6 ) để trục Thủy phá khí,
÷ kiêm chứng đại tiện khó đi thì dùng ( HÀN THỊ PHÚC THỦY HOÀN 7) để trục Thủy thông lợi tiêu trướng
÷ Kiêm chứng mệt mỏi hoặc có hiện tượng hư yếu thì dùng ( THŨNG CỔ HOÀN 8) để trục Thủy tiêu trướng kèm theo nâng chính khí ,
÷ kiêm chứng đắng miệng, tiểu tiện vàng, bụng không nặng lắm, dùng ( LÝ THỊ HỦ CAM TRƯ ĐỞM PHƯƠNG 9) để thanh nhiệt lợi thủy tiêu trướng.
÷ Vùng bụng cổ trướng và to, về tối bụng tăng, ấn vào không rắn, tiểu tiện sẻn ít mà trong là do dương hư nước ứ đọng, có thể dùng ( TIÊU TRỪ PHÚC THỦY PHƯƠNG 10 ) để ôn dương lợi thủy, kiêm chứng tay chân không ấm, chóng mặt, thở gấp, phù thũng, cho uống ( CÙ PHỤ THÔNG DƯƠNG THAN 11 ) để ôn dương trục thủy, lợi niệu tiêu thũng.
÷ Kiêm chứng váng đầu yếu sức, mỏi mệt đau lưng, sợ lạnh nằm co, kém ăn là do dương hư tinh suy, dùng ( ÔN DƯƠNG LỢI THỦY PHƯƠNG 12 ) để ôn dương ích tinh , lý khí tiêu thủy.
÷ vùng bụng trướng to như cái trống, Kiêm chứng mặt, má và đầu mũi nổi nhiều tia máu, có nốt ứ huyết, sốt nhẹ, răng và mũi xuất huyết, miệng khô da se, tiểu tiện ít mà đỏ là do âm hư nước đọng có thể dùng ( CHÂU THỊ LAN ĐẬU PHONG TRỬ THANG 13) gia giảm để dưỡng âm từ thấp tiêu chướng.
÷ kiêm chứng mệt mỏi yếu sức, lưng gối mềm yếu, thuộc Tỳ. Thận khí hư súc kém, dùng ( CỐ THỊ PHÚC THỦY PHƯƠNG SỐ "3" 14 ) để tu dưỡng Can. Thận, ích Tỳ lợi thủy.
÷ kiêm chứng mệt mỏi, họng miệng khô ráo, kém ăn, đại tiện lỏng, tiểu tiện ít, ngực sườn khó chịu hoặc trướng đau, là do Can uất. Tỳ hư , âm hư nước ngăn trở, cho uống ( LƯU THỊ THƯ CAN KIỆN TỲ DƯỠNG ÂM TRỤC THỦY PHƯƠNG 15) để sơ Can kiện Tỳ, ích khí dưỡng âm , lợi thủy tiêu trướng.
÷ Bụng trướng như cái trống, ngực sườn trướng đầy, sắc mặt tím tái, vách bụng lộ gân xanh, kiêm chứng đau nhói ở sườn, chi dưới phù thũng tiểu tiện ít, thuộc huyết ứ thủy đọng, nhẹ thì dùng ( TIÊU CỔ LỢI THỦY THANG 16) để hóa ứ lợi thủy, nặng thì uống ( HÓA Ứ THÔNG KHÍ BÀI THỦY PHƯƠNG 17 ) để hóa ứ, mềm chất rắn, thông lợi tam tiêu, nếu kiêm chứng đắng miệng , tiểu tiện vàng, mà ít, sườn trướng , tinh thần khốn đốn , dùng ( CỔ TRƯỚNG HOÀN 18) để sơ Can lý Tỳ, hoạt huyết hóa ứ, thanh nhiệt lợi thấp, mềm chất rắn và tiêu trướng.
÷ kiêm chứng sườn đau lưỡi tía, đại tiện không thông thì dùng ( HỒ THỊ GIA VỊ KỶ TIÊU LỊCH HOÀNG HOÀN 19) để lợi niệu hóa ứ thông phủ,
÷ kiêm chứng gạ sườn đau nhói, mỏi lưng tinh thần uể oải, kém ăn đại tiện nhão, tiểu tiện ít cho uống ( CỐ THỊ PHÚC THỦY PHƯƠNG SỐ " 2" 2O) để kiện Tỳ bổ Can, ít Thận lợi thủy, kiêm cả hoạt huyết tiêu ứ, nếu lưng không mỏi lắm mà bụng lại trướng đầy nặng, dùng ( TRƯƠNG THỊ SƠ CAN TIÊU THỦY THANG 21) để dưỡng huyết nhu Can, kiện Tỳ lợi thủy, thông lạc mềm chất rắn, tiêu trướng lý khí.
÷ Bụng trướng đầy, thở gấp bức tức, sườn trướng đau, tiểu tiện khó đi hoặc Kiêm chứng khái suyễn là thuộc can ứ phế uất cho uống ( ẤN THỊ THƯ CAN KHAI PHẾ PHƯƠNG 22) để sơ Can hóa ứ, khai Lợi phế khí, bụng trướng to ngực bụng bĩ đầy, đắng miệng kém ăn, rêu lưỡi vàng nhớt, thuộc chứng thấp nhiệt, nghẽn ở trong , cho uống ( KIỀU MẠCH ĐOÀN TỬ 23) để gián khí thông ruột trừ thấp Hòa Trung.
÷ những loại nước đục gây nên trướng bụng nói trên, sau khi dùng biện pháp rút nước hoặc sau khi dùng thuốc tiêu Thủy, có thể dùng ( TRẦN THỊ TIÊU THỦY CỦNG CỐ PHƯƠNG 24) để ít khí dưỡng huyết, kiện tỳ mềm chất rắn, hóa ứng thông Lạc, hoặc dùng( PHỤC CAN HOÀN 25 ) để phù chính hóa ứ, tan kết mềm chất rắn .
÷ bụng to như cái trống, sườn bụng đau dội, bệnh trình kéo dài, phù thũng, chân răng ứa máu, phụ nữ hành kinh dầm dề , sắc Mặt mỏi mệt và tối, thuộc loại hư tổn ở kỳ kinh, uống ( THÔNG BỔ KỲ KINH HOÀN 26 ) để thông bổ kỳ kinh ích âm lương huyết, lợi thủy tiêu trướng.
Trung Y Sư Thích Minh Đạo